Thứ Năm, 25 tháng 6, 2009
KHI LÁI XE LÀM NGHỀ MÔI GIỚI CHÍNH TRỊ
Thứ Hai, 22 tháng 6, 2009
ĐẢNG CẦM QUYỀN
DI CHÚC CỦA CHỦ TỊCH HỒ CHÍ MINH
VỚI VẤN ĐỀ XÂY DỰNG ĐẢNG CẦM QUYỀN
TRONG THỜI KỲ MỚI
Trước lúc đi xa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại bản Di chúc thiêng liêng. Đó là lời căn dặn cuối cùng, những tình cảm, niềm tin của Người với toàn Đảng, toàn dân và các thế hệ người Việt Nam đương thời và muôn đời sau. Di chúc đã đề cập đến nhiều phương diện, chứa đựng những giá trị lý luận, thực tiễn, trong đó, những lời di huấn về Đảng và xây dựng Đảng là những nội dung quý giá mãi mãi soi sáng cho sự nghiệp cách mạng của Đảng ta.
Di sản tư tưởng Hồ Chí Minh về Đảng và xây dựng Đảng bao gồm những luận điểm có tính hệ thống và toàn diện được Người đề cập trong nhiều tài liệu, bài viết, bài nói. Song, Di chúc là những vấn đề mà Người tâm huyết, trăn trở nhất. Đó là những vấn đề hết sức quan trọng mà Người di huấn cho các thế hệ đương thời và mai sau phải đặc biệt chú ý. Từ lý luận, thực tiễn và kinh nghiệm phong phú của vị lãnh tụ vĩ đại, Người căn dặn: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”[1].
Không phải ngẫu nhiên, trước hết trong Di chúc, Hồ Chí Minh khẳng định Đảng ta là đảng cầm quyền. Điều đó, Người không chỉ khẳng định vị trí, vai trò to lớn của Đảng đối với Nhà nước và toàn xã hội Việt Nam, nhiệm vụ của Đảng rất vẻ vang nhưng rất nặng nề, mà Người còn muốn chúng ta thấu rõ, trong điều kiện Đảng cầm quyền, sự lãnh đạo của Đảng và công tác xây dựng Đảng sẽ có những thuận lợi và thách thức mới, nhất là các căn bệnh về quan liêu, tự mãn, chủ quan, duy ý chí, độc đoán chuyên quyền… có điều kiện phát triển trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và ngay cả các cơ quan lãnh đạo của Đảng. Nếu không tích cực, chủ động khắc phục những căn bệnh đó, có thể dẫn đến nguy cơ làm cho Đảng sai lầm về đường lối, bao biện làm thay Nhà nước, "đảng trị" hoặc buông lỏng sự lãnh đạo. Những vấn đề đó không chỉ làm suy yếu Đảng mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến vai trò, chức năng, sức mạnh của Nhà nước và các tổ chức trong hệ thống chính trị, ảnh hưởng trực tiếp đến sự thành bại của cách mạng.
Từ đó, Người chỉ huấn, để xây dựng Đảng trong điều kiện cầm quyền, vấn đề tiên quyết là phải chăm lo giáo dục, rèn luyện cán bộ, đảng viên về đạo đức cách mạng. Người đã từng khẳng định, gốc của cách mạng là dân, gốc của công việc là cán bộ, gốc của cán bộ là đạo đức. Điều đó như một lẽ tự nhiên - một quy luật, do vậy, Người coi đó là vấn đề sống còn của cách mạng. Người dạy: "cũng như sông phải có nguồn mới có nước, không có nguồn thì sông cạn; cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo; người cách mạng phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh đạo được nhân dân"[2].
Đạo đức của người cách mạng được hợp thành bởi nhiều thành tố, theo Người, trong điều kiện Đảng cầm quyền, phẩm chất cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư là những thành tố cơ bản nhất, quyết định nhất. Đó cũng chính là vấn đề then chốt nhất đảm bảo sự trong sạch, vững mạnh của Đảng, làm cho Đảng thực sự là vừa người lãnh đạo, vừa là đầy tớ trung thành của nhân dân.
Luận điểm Đảng "vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân" được xuất phát từ bản chất cách mạng của Đảng ta, từ mối quan hệ máu thịt giữa Đảng với nhân dân trong sự nghiệp cách mạng. Theo cách hiểu thông thường, về mặt chính trị, lãnh đạo và phục vụ là hai phạm trù có nội hàm khác nhau; người lãnh đạo và người đầy tớ (người phục vụ) cũng có những chức trách không giống nhau. Thế nhưng, đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, một đảng ra đời từ phong trào cách mạng của nhân dân, có thiên chức lãnh đạo cuộc cách mạng ấy vì mục đích phục vụ nhân dân, lấy lợi ích của nhân dân làm lợi ích cao nhất của mình, thì hoàn toàn không có một bức tường ngăn cách nào giữa nhiệm vụ lãnh đạo và nhiệm vụ phục vụ. Để thực hiện tốt thiên chức của mình, Đảng phải có đường lối đúng đắn, phản ánh đúng tâm tư, nguyện vọng, đáp ứng lợi ích đông đảo quần chúng, thực sự là ngọn đuốc soi đường cho nhân dân hành động; đội ngũ cán bộ, đảng viên phải thực sự gương mẫu trước nhân dân, nói đi đôi với làm, phải hội đủ tâm, tầm, trí, đức. Đảng phải là công bộc của nhân dân, mục đích hoạt động của Đảng là phục vụ nhân dân, đem lại quyền lợi cho nhân dân…
Bốn mươi năm đã đi qua, nhưng những lời di huấn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc còn nguyên giá trị và mang tính thời sự sâu sắc. Công cuộc xây dựng đất nước kiến tạo chủ nghĩa xã hội đang đòi hỏi phải không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, ngang tầm với với vị thế cầm quyền và nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới. Quán triệt và thực hiện di huấn thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cần tiến hành đồng bộ các giải pháp về xây dựng Đảng và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, trọng tâm cần thực hiện 3 vấn đề cốt yếu có mối quan hệ chặt chẽ trong một chỉnh thế thống nhất về xây dựng Đảng cầm quyền sau đây:
Trước hết, vấn đề trung tâm của công tác xây dựng Đảng hiện nay là đổi mới công tác cán bộ và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
Xây dựng Đảng thực sự vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, giữ vững vai trò cầm quyền là yêu cầu khách quan của công cuộc đổi mới hiện nay, muốn vậy phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ đồng bộ, có chất lượng, bảo đảm tính kế thừa và phát triển, tuyệt đối trung thành với lý tưởng của Đảng, có phẩm chất, năng lực, nhạy cảm với cái mới và có tư tưởng đổi mới, đủ sức đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ mới. Bởi, từ lý luận đến thực tiễn cho thấy, đội ngũ cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng đường lối chính trị, sau khi có đường lối chính trị đúng đắn, vấn đề có ý nghĩa quyết định nhất với thành công của nhiệm vụ chính trị, chính là thực hiện tốt công tác cán bộ. Trong đó, nhiệm vụ quan trọng hơn cả là phải xây dựng cho được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là cán bộ lãnh đạo cấp chiến lược và người đứng đầu tổ chức ở các cấp, các ngành của hệ thống chính trị có đủ đức, đủ tài và có khả năng đảm nhận và gánh vác những công việc quan trọng của đất nước, trong đó lấy việc xây dựng đạo đức cách mạng, cho đội ngũ cán bộ là yếu tố gốc. Do vậy, tiêu chuẩn về phẩm chất đạo đức cán bộ hiện nay là phải cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư, phấn đấu hết mình, toàn tâm, toàn ý xây dựng đất nước và sự nghiệp cách mạng của Đảng.
Mặt khác, vai trò của nguồn lực cán bộ trong hội nhập, xây dựng nền kinh tế tri thức hiện nay được coi là nhân tố quan trọng hàng đầu. Do vậy, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ có thể được coi là khâu đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đất nước. Để quá trình này diễn ra nhanh chóng và đạt hiệu quả, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp không phải là sự hô hào khẩu hiệu chung chung mà phải cụ thể hóa từ sự lãnh đạo của Đảng, chính sách của Nhà nước về xây dựng đội ngũ cán bộ, công tác cán bộ, về giáo dục - đào tạo, phát triển văn hóa, nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, phát triển nhân tài,…gắn với thực hiện Cuộc vận động "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh". Các giải pháp cơ bản là: Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với công tác cán bộ. Tích cực đổi mới chính sách cán bộ, trong đó trọng tâm là phải giải quyết tốt chính sách tiền lương và chính sách thu hút nhân tài, phát triển tài năng đảm bảo cho cán bộ thực sự chuyên tâm vào công việc, có điều kiện học hành, nâng cao tri thức, không ngừng phấn đấu vươn lên, không phải bươn chải, lăn lộn kiếm tiền lo toan cuộc sống, không phải, không cần, không dám lao vào các vòng xoáy tiêu cực, tha hóa về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong công tác cán bộ và tình trạng “chảy máu chất xám” làm thất thiệt cán bộ tài năng - nguồn tài nguyên quý giá nhất của đất nước. Đổi mới công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ gắn với tiêu chuẩn hoá cán bộ và đổi mới, nâng cao chất lượng toàn diện hệ thống giáo dục - đào tạo quốc gia, đổi mới cơ quan quản lý đào tạo và thực hiện xã hội hóa giáo dục - đào tạo, hướng trọng tâm vào đào tạo, xây dựng nguồn nhân lực mới, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đào tạo nhân tài cho đất nước, phải kiên quyết, tích cực khắc phục nạn học tập chỉ để chạy theo bằng cấp. Đổi mới quy trình tuyển chọn cán bộ để thu hút, phát hiện người có tài - đức, đủ điều kiện đáp ứng yêu cầu về xây dựng đội ngũ cán bộ, đặt trọng tâm vào xây dựng được quy chế tuyển chọn cán bộ thích ứng với yêu cầu xây dựng và phát triển đất nước, xây dựng Đảng cầm quyền. Phải đảm bảo cho quá trình tuyển chọn cán bộ của Đảng, Nhà nước và cả hệ thống chính trị đạt được sự trong sáng về chính trị, làm cho quần chúng được biết, được lựa chọn, được kiểm tra giám sát cán bộ, thực hiện được dân chủ trong công tác cán bộ; khắc phục tình trạng cán bộ chỉ lo chạy chọt vào chức nọ, chức kia mà không lo học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ mọi mặt của mình và tình trạng cán bộ chỉ lo đối phó, chịu trách nhiệm với cấp trên mà không quan tâm, chịu trách nhiệm trước quần chúng và cấp dưới; phát huy năng khiếu, sở trường, năng lực chuyên môn của cán bộ; mở rộng việc phát hiện, lựa chọn nhân tài, phá vỡ thế đóng kín về cán bộ của một ngành hay một địa phương... Muốn vậy, phải xây dựng được cơ chế tuyển dụng tốt, đồng thời, thực hiện nghiêm chế độ thưởng, phạt đối với cán bộ có thành tích hoặc bị khuyết điểm, làm cho đội ngũ cán bộ luôn luôn được sàng lọc, được bổ sung, tăng cường, không ngừng trí tuệ hóa, tài năng hóa đội ngũ cán bộ.
Hai là, tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng
Mỗi giai đoạn lịch sử nhất định, phương thức lãnh đạo của Đảng phải được điều chỉnh, thay đổi phù hợp với thực tế đòi hỏi của cuộc sống, hoàn cảnh và điều kiện cụ thể của nhiệm vụ cách mạng. Xác định đúng phương thức lãnh đạo của Đảng là vấn đề mấu chốt đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng và xây dựng hệ thống chính trị. Bởi trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền, không xác định rõ khâu mấu chốt đó dễ sinh ra căn bệnh độc đoán, chuyên quyền, bao biện, làm thay công việc của Nhà nước hoặc làm mất vai trò lãnh đạo của Đảng, làm tha hóa đội ngũ cán bộ, đảng viên, dẫn đến tình trạng làm suy yếu Đảng. Để xứng đáng với vị trí độc tôn cầm quyền, Đảng không chỉ lãnh đạo bằng đường lối, quan điểm, nghị quyết, lãnh đạo xây dựng Nhà nước mạnh; bằng công tác cán bộ và công tác kiểm tra..., mà phải luôn có những phương pháp, cách thức mới, sáng tạo, hiệu lực, hiệu quả.
Đổi mới phương thức lãnh đạo nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu đáp ứng nhiệm vụ cách mạng thời kỳ mới cần thực hiện đồng bộ các giải pháp: nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ và năng lực lãnh đạo của Đảng; sắp xếp, kiện toàn tổ chức bộ máy của Đảng và các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp phù hợp yêu cầu của tình hình mới; xây dựng đội ngũ cán bộ các ngành, các cấp có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực và phong cách làm việc dân chủ, khoa học; tập trung đổi mới phương thức lãnh đạo đối với Nhà nước, lãnh đạo và tạo mọi điều kiện thuận lợi để mặt trận và các đoàn thể nhân dân xác định đúng mục tiêu, phương hướng hoạt động; phát huy tinh thần tự chủ, sáng tạo trong xây dựng, đổi mới tổ chức và hoạt động, thực hiện vai trò giám sát và phản biện xã hội, tham gia tích cực vào việc thực hiện đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; nêu cao sự gương mẫu của tổ chức Đảng và của mỗi đảng viên.
Trong đó, cần đặc biệt chú trọng nâng cao chất lượng giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nắm vững phương pháp luận mác-xít, phương pháp tư duy Hồ Chí Minh; giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng; nêu cao sự gương mẫu của tổ chức Đảng và của mỗi đảng viên. Thực tế hiện nay, những người đứng đầu các cơ quan Nhà nước từ trung ương đến cơ sở đều là những người trong cơ quan lãnh đạo của Đảng, như Uỷ viên Bộ Chính trị, uỷ viên Ban chấp hành trương ương Đảng ở Trung ương, Thường vụ cấp uỷ, cấp uỷ viên ở các cấp chính quyền địa phương. Phương thức lãnh đạo hiệu quả nhất, thiết thực nhất có thể khẳng định là vai trò cá nhân của những đảng viên giữ trọng trách trong các cơ quan nhà nước và các tổ chức chính trị-xã hội, bởi mọi quyết định, mọi biện pháp, mọi hành động đều bắt đầu từ những người đứng đầu trong các cơ quan đó. Do vậy, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng phải gắn liền với việc chăm lo nhiều hơn việc giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là những đảng viên có chức, có quyền thật sự gương mẫu trong chấp hành pháp luật, trong đạo đức, lối sống, trong công tác, học tập, thực hành "cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư", tích cực phòng, chống tham nhũng. Thực hiện tốt những vấn đề trên thì hiệu quả đưa lại sẽ vô cùng to lớn trong toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng cũng như trong công tác xây dựng Đảng.
Ba là, xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân vững mạnh
Chính quyền là vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng, trong điều kiện Đảng cầm quyền, Nhà nước là công cụ để Đảng quản lý, điều hành xã hội, thực hiện ý chí, mục tiêu của Đảng. Do vậy, Nhà nước vững mạnh, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả thì Đảng mạnh, ngược lại Nhà nước yếu, hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả không chỉ làm cho Đảng suy yếu mà còn chứa đựng những nguy cơ khôn lường đối với Đảng.
Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một trong những điều kiện và môi trường tiên quyết của một quốc gia tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa và một xã hội phát triển tiên tiến, đồng thời, cần xây dựng Nhà nước thật sự trong sạch, vững mạnh, đủ sức xây dựng hệ thống thể chế đồng bộ và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ theo đường lối của Đảng. Nhà nước phải thật sự là người phục vụ nhân dân, đáp ứng các nhu cầu hợp pháp của nhân dân, người bảo vệ mọi lợi ích chính đáng của nhân dân.
Để bảo đảm quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, trong đó nhà nước là của nhân dân chứ không phải nhân dân là của nhà nước, Đảng cần tập trung lãnh đạo đề cao tính hợp hiến, hợp pháp trong tổ chức và hoạt động của nhà nước, bảo đảm cho sự phát triển tự do tối đa của nhân dân, làm cho cả hai mặt dân chủ và pháp luật trong nhà nước pháp quyền phải được gắn bó hữu cơ, làm tiền đề tồn tại cho nhau và tạo nên bản chất của nhà nước pháp quyền. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là cách thức cơ bản để phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân. Lãnh đạo giải quyết tốt mối quan hệ nhà nước pháp quyền, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và xã hội công dân là bộ ba hợp thành không thể tách rời, là điều kiện và tiền đề cho nhau, bảo đảm và kết quả của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đảm bảo cho mỗi người dân tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, tham gia thảo luận các vấn đề chung của cả nước và địa phương, kiến nghị, đề đạt nguyện vọng, yêu cầu của mình với các cơ quan nhà nước. Công dân có quyền tự do ngôn luận, khiếu nại, tố cáo; có điều kiện kiểm tra hoạt động của Nhà nước. Trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, cần khẳng định các mối quan hệ chủ đạo giữa các nguyên tắc và yêu cầu của nhà nước pháp quyền với hệ thống chính trị duy nhất một đảng lãnh đạo và phương thức tổ chức nhà nước tập trung có phân công, phối hợp giữa các cơ quan nhà nước thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp; với việc tôn trọng các quyền tự do của công dân và nghĩa vụ, trách nhiệm của công dân trong việc bảo đảm một xã hội trật tự, kỷ cương. Sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước không phải chỉ dựa vào quyền uy, mệnh lệnh, mà là bằng trí tuệ, năng lực lãnh đạo của Đảng, ở khả năng vạch ra đường lối chính trị đúng đắn, ở sự gắn bó với nhân dân và khả năng giáo dục, thuyết phục toàn xã hội chấp thuận, ở vai trò tiên phong của đảng viên và tổ chức đảng trong các cơ quan nhà nước, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức kinh tế, các tổ chức xã hội - nghề nghiệp...
Di sản Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại trong Di chúc không phải là của cải, tiền bạc, sự kế thừa địa vị mà là những lời dặn dò tâm huyết, những bài học được đúc kết từ thực tế cuộc đời hoạt động cách mạng của Người và từ kết quả của tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy, Di chúc của Người không những có ý nghĩa thiêng liêng với hiện tại mà còn nguyên giá trị to lớn đối với tương lai. Ánh sáng của các tư tưởng về Đảng và xây dựng Đảng trong Di chúc sẽ mãi mãi soi rọi, dẫn đường, chỉ lối cho việc xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam thực sự chân chính, cách mạng, xứng đáng vai trò cầm quyền lãnh đạo Nhà nước và nhân dân thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Thứ Sáu, 19 tháng 6, 2009
CHỦ NGHĨA CƠ HỘI VÀ ĐẤU TRANH CHỐNG CHỦ NGHĨA CƠ HỘI HIỆN NAY
Trong quá trình bảo vệ, phát triển và hiện thực hóa tư tưởng khoa học của Mác- Ăng-ghen, V.I.Lê-nin đó nêu lên một kiểu mẫu về sự kiên định nguyên tắc tính đảng mác-xít trong mọi hoạt động lý luận và thực tiễn, đặc biệt là trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa giáo điều và những khuynh hướng cơ hội, xét lại trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Giờ đây, trước những diễn biến phức tạp của tỡnh hỡnh, cuộc đấu tranh trên bỡnh diện lý luận và tư tưởng trở nên rất gay gắt, thực sự chiếm vị trí hàng đầu trong đấu tranh giai cấp, đồng thời xuất hiện nhiều trào lưu cơ hội, xét lại dưới nhiều màu sắc rất phức tạp. Trong bối cảnh lịch sử đó, đối với chúng ta, những tư tưởng của V.I.Lê-nin về chủ nghĩa cơ hội và đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội không những vẫn giữ nguyên giá trị lịch sử, mà cũn cú ý nghĩa lỹ luận và thực tiễn quan trọng.
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản phát triển tương đối ổn định và hoà bình, mâu thuẫn giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản không gay gắt như trước nữa. Phong trào công nhân phát triển theo bề rộng và có xu hướng thiên về đấu tranh nghị trường trong điều kiện cùng tồn tại hoà bình với giai cấp tư sản. Giai cấp tư sản lợi dụng điều kiện hoàn cảnh đó để tìm mọi cách lũng đoạn phong trào công nhân. Đó cũng là điều kiện thuận lợi để chủ nghĩa cơ hội ra đời và phát triển nhanh chóng trong phong trào công nhân. Do sự phát triển của phong trào công nhân có nhiều chính đảng của giai cấp công nhân được thành lập như ở Đức, Anh, Pháp. Các đảng ra đời vẫn thiên về đấu tranh nghị trường. Nó có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của phong trào công nhân và Quốc tế I được thành lập năm 1864 và kết thúc hoạt động năm 1876. Tiếp theo là Quốc tế II được thành lập năm 1889 ở Paris. Trong giai đoạn đầu khi Ăng ghen còn sống và lãnh đạo (1889-1895) đã kiên quyết đấu tranh chống xu hướng cải lương, thỏa hiệp, cơ hội và kiên trì bảo vệ chủ nghĩa Mác, cho nên Quốc tế II hoạt động ổn định. Nhưng sau khi Ăng ghen mất 1895, ban lãnh đạo Quốc tế II đã rơi vào tay chủ nghĩa cơ hội, các phần tử cơ hội chiếm phần lớn trong ban lãnh đạo Quốc tế II, chúng câu kết với nhau chống lại chủ nghĩa Mác, lũng đoạn phong trào công nhân mưu toan biến Đảng dân chủ xã hội ở Tây Âu thành các Đảng cơ hội cải lương và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân cũng theo chiều hướng cải lương. Điều đó làm cho phong trào cộng sản và công nhân quốc tế bị phân hoá sâu sắc chia thành các trào lưu tư tưởng khác nhau.
Trào lưu cơ hội cánh hữu đại biểu là Bécstanh đứng đầu chúng công khai đòi xét lại chủ nghĩa Mác một cách toàn diện. Chúng phủ nhận cách mạng vô sản, chuyên chính vô sản, cho rằng chủ nghĩa Mác là một học thuyết giáo điều và đã lạc hậu. Thực chất là phủ nhận chủ nghĩa Mác. Trào lưu phái giữa đại biểu là Cauxky đây chính là chủ nghĩa cơ hội dấu mặt, họ khoác áo chủ nghĩa Mác nhưng chống lại chủ nghĩa Mác. Tư tưởng của họ là thoả hiệp cải lương phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản. Nhưng còn một phái tả do V.I.Lê nin đứng đầu kiên trì đấu tranh chống lại chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác.
Đối với nước Nga vào cuối thế kỷ XIX dưới chế độ Nga hoàng, bước vào con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Nhất là từ năm 1881 khi Nga Hoàng bãi bỏ chế độ nông nô đã tạo điều kiện cho chủ nghĩa tư bản phát triển nhanh chóng ở Nga, làm cho giai cấp công nhân phát triển mạnh. Phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Nga diễn ra rất mạnh mẽ. Nhưng những cuộc đấu tranh đó đều bị Nga Hoàng thẳng tay đàn áp dã man, nên các cuộc đấu tranh đó đều thất bại. Vì chưa có lý luận soi đường và chưa có lãnh tụ chính trị lãnh đạo phong trào cách mạng. Mặc dù vậy nhưng phong trào công nhân vẫn không ngừng phát triển, đến đầu thế kỷ XX nước Nga đã trở thành trung tâm cách mạng của thế giới. Nhiệm vụ cách mạng xã hội trực tiếp đặt ra ở nước Nga là phải có một chính đảng cách mạng để lãnh đạo phong trào cách mạng.
Thực tế do ảnh hưởng của Quốc tế II và sự phát triển của phong trào công nhân, chủ nghĩa Mác được truyền bá vào nước Nga dẫn đến một loạt các tổ chức Mác xít ra đời. Năm 1883 nhóm “Giải phóng lao động” do Plê Kha nốp lãnh đạo được thành lập ở Thuỵ sĩ, nhóm này đã tích cực dịch và truyền bá lý luận Mác vào Nga. Vai trò tích cực của họ là tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác vào Nga để nâng cao trình độ nhận thức giác ngộ công nhân và nhân dân lao động ở Nga và đánh một đòn mạnh và phái “dân tuý”. Nhưng hạn chế của họ là chỉ dừng lại dịch sách và truyền bá đơn thuần, không gắn bó với giai cấp công nhân Nga, không đả động gì đến vai trò của giai cấp nông dân, chưa kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân.
Từ tình hình đó đặt ra cho V.I.Lê nin và những người bạn của ông là phải truyền bá chủ nghĩa Mác vào phong trào công nhân Nga để tiến tới thành lập chính đảng cách mạng ở Nga. Năm 1895 tại Pêtécbua, V.I.Lê nin đã thống nhất các tổ chức của công nhân và lấy tên “Hội liên hiệp giải phóng giai cấp công nhân”. Đây là tổ chức tiền thân của Đảng cách mạng dựa vào phong trào công nhân. Nhưng không được bao lâu, tổ chức này bị Chính phủ Nga Hoàng đàn áp. V.I.Lê nin và những người lãnh đạo của Hội bị bắt đưa đi đầy ở Xibêri. Ban lãnh đạo mới của Hội được thành lập do Máctưnốp đứng đầu, thực chất họ là phái kinh tế, quan điểm của họ đối lập hoàn toàn với V.I.Lê nin.Với đường lối chính trị sai lầm, cơ hội cải lương, chủ trương của họ là đấu tranh kinh tế, phủ nhận đấu tranh chính trị. V.I.Lê nin cho rằng phái kinh tế là trung tâm của chính sách thoả hiệp và chủ nghĩa cơ hội. Cho nên muốn thành lập chính đảng của giai cấp công nhân phải đánh bại phái kinh tế.
Năm 1898 một nhóm Mác xít đã tiến hành đại hội lần thứ nhất của Đảng dân chủ xã hội Nga, tuyên bố thành lập Đảng bầu ra được ban chấp hành Trung ương, nhưng không thông qua được cương lĩnh và điều lệ. Đại hội vừa kết thúc thì Ban chấp hành Trung ương bị bắt. Cho nên các tổ chức Mác xít và phong trào công nhân Nga rơi vào tình trạng dao động về tư tưởng, phân tán về tổ chức. Trong khi đó phái kinh tế lại chiếm số đông trong các ban chấp hành ở địa phương và có tờ báo riêng để tuyên truyền những quan điểm cơ hội, xét lại, làm cho Đảng công nhân dân chủ xã hội Nga khủng hoảng trầm trọng, phong trào công nhân phát triển theo chiều hướng cải lương, chủ nghĩa Mác đang bị đe dọa.
Từ những lý do đó V.I.Lê nin đã có quan điểm dứt khoát là phải chống những tư tưởng của chủ nghĩa cơ hội. Tư tưởng đó của V.I.Lê nin được tập trung viết trong các tác phẩm: "Những người bạn dân...", "Làm gì?" "Một bước tiến, hai bước lùi"...
1. Tư tưởng của V.I. Lê nin về chủ nghĩa cơ hội.
Trong các tác phẩm: "Những người bạn dân...", "Làm gì?" "Một bước tiến, hai bước lùi"... V.I.Lê nin đã đấu tranh không khoan nhượng với chủ nghĩa cơ hội. V.I.Lê nin đã chỉ rõ nguồn gốc, bản chất, đặc điểm và những luận điểm xuyên tạc phản động, phản khoa học của chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác và tiến tới thành lập một đảng kiểu mới để lãnh đạo cách mạng Nga.
Để chống lại chủ nghĩa cơ hội trước hết V.I.Lê nin đã chỉ ra bản chất của chủ nghĩa cơ hội: "Ai không cố ý nhắm mắt lại thì không thể không thấy rằng khuynh hướng "phê bình" mới trong chủ nghĩa xã hội chẳng qua chỉ là một hình loại mới của chủ nghĩa cơ hội mà thôi. Và nếu xét người, không căn cứ vào bộ áo hào nhoáng họ tự khoác cho họ hoặc vào cái tên khá kêu họ tự đặt cho họ mà căn cứ vào cách họ hành động, vào những tư tưởng mà họ thực tế truyền bá, thì thấy rõ rằng "tự do phê bình" là tự do của khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa trong Đảng dân chủ - xã hội"[1].
V.I.Lê nin khẳng định khẩu hiệu"tự do phê bình" mà phái kinh tế giương lên là hình thức mới của chủ nghĩa cơ hội quốc tế, khuynh hướng này hình thành vào nửa cuối thế kỷ XIX và phát triển mạnh vào đầu thế kỷ XX trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đó là sự phản ánh cuộc đấu tranh giai cấp giữa giai cấp vô sản và giai cấp tư sản. Vấn đề nguy hiểm của chủ nghĩa cơ hội là khoác áo chủ nghĩa Mác, không công khai phủ nhận chủ nghĩa Mác nhưng xuyên tạc chủ nghĩa Mác, vứt bỏ nội dung linh hồn của chủ nghĩa Mác, nhằm phục vụ cho lợi ích của giai cấp tư sản. Theo V.I.Lê nin tư tưởng của "tự do phê bình" hoàn toàn chỉ là sự cóp nhặt sách báo tư sản rồi làm thành "học thuyết "của mình, rằng cái gọi là "tự do phê bình" chẳng qua chỉ "là tự do biến Đảng dân chủ - xã hội thành một đảng dân chủ cải lương, là tự do đưa những tư tưởng tư sản và những thành phần tư sản vào trong chủ nghĩa xã hội"[2].
Thời kỳ chủ nghĩa Mác mới ra đời chưa có ảnh hưởng lớn trong xã hội thì những người cơ hội chủ nghĩa đứng ngoài hàng ngũ những người Mác xít để công khai chống lại chủ nghĩa Mác. Nhưng đến giai đoạn chủ nghĩa Mác đã trở thành một hệ tư tưởng tiến bộ nhất ngày càng ảnh hưởng sâu rộng trong phong trào công nhân, chỉ ra cho giai cấp công nhân thấy rõ sự tất yếu diệt vong của chủ nghĩa tư bản và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Sự thắng lợi của chủ nghĩa Mác đã buộc giai cấp tư sản phải đội lốt những người Mác xít để chống chủ nghĩa Mác. Vì vậy thời kỳ này khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa xuất hiện ngay trong hàng ngũ những người Mác xít. Cuộc đấu tranh giữa khuynh hướng Mác xít và chủ nghĩa cơ hội trong phong trào dân chủ xã hội đã vượt ra ngoài phạm vi quốc gia và trở thành vấn đề có tính chất quốc tế. V.I.Lê nin chỉ ra: "Thật thế, ai nấy đều biết rằng trong phong trào dân chủ xã hội quốc tế ngày nay, đã hình thành hai khuynh hướng; giữa hai khuynh hướng ấy, cuộc đấu tranh có lúc bùng lên sáng rực như ngọn lửa chói lọi, có lúc lại dịu xuống và âm ỉ dưới một đống tro tàn của những “nghị quyết ngừng chiến” trang nghiêm"[3]. V.I.Lê nin chỉ ra các luận điệu phê phán chủ nghĩa Mác là "cũ kỹ", "giáo điều", chỉ là một hình thức mới của chủ nghĩa cơ hội quốc tế. Trong các đảng dân chủ xã hội Tây Âu, trào lưu cơ hội chủ nghĩa ngày càng được củng cố, hoạt động dưới chiêu bài "tự do phê bình", đó là sự phê bình của giai cấp tư sản đối với chủ nghĩa Mác và tệ hại hơn là chúng đòi “xét lại” chủ nghĩa Mác.
Sau khi Ăng ghen mất 1895, bọn cơ hội chủ nghĩa đứng đầu là Bécstanh đã chủ trương biến đảng dân chủ cách mạng thành đảng dân chủ cải lương, chủ trương thi hành cải cách xã hội. Với vai trò là lãnh tụ của chủ nghĩa cơ hội xét lại, Bécstanh đã phủ nhận cơ sở khoa học của chủ nghĩa xã hội khoa học, phủ nhận tình trạng bần hoá của giai cấp công nhân, phủ nhận những mâu thuẫn trong lòng xã hội tư bản ngày càng trầm trọng, phủ nhận lý luận đấu tranh giai cấp và sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, phủ nhận cách mạng bạo lực và chuyên chính vô sản. V.I.Lê nin chỉ ra những quan điểm cơ hội chủ nghĩa đó của Bécstanh. Nó chẳng những chỉ là "chủ nghĩa Bécstanh lý luận" mà đã được Minlơrăng ở Pháp biến thành chủ nghĩa Bécstanh thực tiễn: “Minlơrăng là một ví dụ sáng tỏ về chủ nghĩa Bécstanh thực tiễn ấy”[4].
Như vậy V.I.Lê nin đã vạch trần bản chất của chủ nghĩa cơ hội dưới khẩu hiệu "tự do phê bình" là hình thức mới của chủ nghĩa cơ hội quốc tế. Thực chất là sự phê bình của tư tưởng tư sản đối với chủ nghĩa Mác nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác, đem hệ tư tưởng tư sản vào thống trị phong trào công nhân, biến các đảng dân chủ xã hội cách mạng, thành đảng dân chủ xã hội cơ hội cải lương, hạn chế phong trào công nhân trong khuôn khổ đấu tranh đòi những cải thiện về kinh tế, không đụng chạm đến nền móng của chủ nghĩa tư bản, không tiến hành đấu tranh chính trị.
V.I.Lê nin đã chỉ ra chủ nghĩa cơ hội có nguồn gốc kinh tế lịch sử xã hội của nó. V.I.Lê nin chỉ ra nó xuất hiện từ rất sớm vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, ra đời trong tổ chức của phong trào công nhân, ngay trong hàng ngũ của những người Mác xít. Khi nói về nguồn gốc của chủ nghĩa cơ hội V.I.Lê nin khảng định tuyệt nhiên không phải là ngẫu nhiên mà nó đều có nguồn gốc của nó.
Trước hết về nguồn gốc kinh tế: Đó là sự mua chuộc của giai cấp tư sản với tầng lớp trên của giai cấp công nhân bằng hình thức siêu lợi nhuận. Đó là bộ phận công nhân có trình độ chuyên môn, tay nghề cao, có uy tín trong tập thể công nhân được giai cấp tư sản sử dụng giúp tư sản trong tổ chức, quản lý sản xuất, giám sát kỹ thuật. Sau đó bị giai cấp tư sản mua chuộc, chi phối bằng lợi ích vật chất. Từ đó bị biến chất trở thành tay sai cho giai cấp tư sản, tầng lớp công nhân quý tộc này đã tác động làm cho chủ nghĩa cơ hội phát triển trong phong trào công nhân.
Nguồn gốc lịch sử: Đó là thời kỳ chủ nghĩa tư bản phát triển tương đối ổn định và hoà bình, các hình thức đấu tranh nghị trường, đấu tranh trong các câu lạc bộ là hình thức đấu tranh phổ biến đã làm cho nhiều người lầm tưởng bản chất của giai cấp tư sản và coi đấu tranh nghị trường là hình thức duy nhất. Mặt khác do sự phát triển hoà bình, ổn định không xảy ra mâu thuẫn xung đột giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản, lợi dụng tình hình đó giai cấp tư sản đưa những phần tử phản động vào phong trào công nhân để lái phong trào công nhân đi theo chủ nghĩa cơ hội.
Nguồn gốc xã hội: là sự tham gia đông đảo của các thanh niên trí thức tiểu tư sản vào Đảng dân chủ xã hội, khi chủ nghĩa Mác đã trở thành một cái "mốt" rất hấp dẫn đối với tầng lớp thanh niên trí thức tiểu tư sản, trong khi đó họ chưa được tuyên truyền giác ngộ chủ nghĩa Mác một cách đầy đủ, nên họ chưa từ bỏ được lập trường giai cấp xuất thân nên dễ bị giai cấp tư sản lợi dụng lôi kéo mua chuộc. V.I.Lê nin viết "việc tầng lớp "các viện sĩ" tham gia đông đảo vào phong trào xã hội chủ nghĩa trong mấy năm gần đây đã đảm bảo cho chủ nghĩa Bécstanh được phổ biến nhanh chóng"[5].
Về đặc điểm của chủ nghĩa cơ hội quốc tế nói chung và phái "kinh tế ở Nga nói riêng. V.I.Lê nin cho rằng chủ nghĩa cơ hội quốc tế được biểu hiện dưới nhiều mầu sắc, nhiều dạng, loại khác nhau tuỳ theo đặc điểm của từng quốc gia dân tộc, nhưng chúng giống hệt nhau về nội dung bản chất chính trị xã hội "Những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội quốc tế hiện đại thay đổi tuỳ theo đặc điểm dân tộc, nhưng chủ nghĩa cơ hội thì bất cứ ở đâu cũng giống hệt như nhau về nội dung xã hội và chính trị"[6]. Về phái "kinh tế" ở Nga, V.I.Lê nin khẳng định chỉ là sự biến tướng của chủ nghĩa cơ hội xét lại quốc tế, là những đồ đệ của Bécstanh ở Nga, chúng “lấy tự do phê bình và chủ nghĩa Bécstanh làm điều kiện đoàn kết những người dân chủ xã hội Nga”[7]. Về hình thức nó được biểu hiện dưới dạng "chủ nghĩa kinh tế" còn về bản chất nội dung chính trị xã hội giống hệt nhau, nó hiện nguyên hình là chủ nghĩa cơ hội xét lại của Bécstanh. Đặc điểm nổi bật của chủ nghĩa cơ hội nói chung và phái kinh tế ở Nga nói riêng là về nguyên tắc chúng sợ công bố công khai, sợ phê bình. V.I.Lê nin chỉ rõ "Một đặc điểm rất kỳ lạ của "chủ nghĩa kinh tế" ở nước ta là sợ sự công bố"[8].
Về tư tưởng lý luận chúng tầm thường hoá chủ nghĩa Mác dẫn đến bất lực và đồng lõa với những quan điểm tư tưởng phản động "chủ nghĩa Bécstanh và phái "phê bình" mà phần lớn những người Mác xít hợp pháp đều lũ lượt đi theo, đã tước mất khả năng ấy và làm bại hoại ý thức xã hội chủ nghĩa bằng cách tầm thường hoá chủ nghĩa Mác, bằng cách truyền bá cái thuyết cho rằng những đối kháng xã hội đang giảm dần đi, bằng cách tuyên bố rằng tư tưởng về cách mạng xã hội và chuyên chính vô sản là phi lý"[9].
Về quan điểm chính trị chúng chủ trương thu hẹp và hạ thấp cuộc đấu tranh chính trị, thực chất là hạ thấp chính trị xã hội chủ nghĩa xuống trình độ công liên chủ nghĩa, như vậy hạ thấp mục tiêu đấu tranh của phong trào công nhân, từ bỏ cách mạng vô sản và chuyên chính vô sản V.I.Lê nin chỉ ra: Chủ nghĩa cơ hội “kéo phong trào công nhân và cuộc đấu tranh giai cấp xuống thành một thứ chủ nghĩa công liên hẹp hòi”[10]. Về sách lược thiếu kiên định cải lương về hình thức đấu tranh giai cấp, chỉ đấu tranh kinh tế, không quan tâm đến đấu tranh vì mục đích chính trị, chỉ quan tâm đến mục tiêu trước mắt bỏ mục tiêu cơ bản lâu dài, chỉ quan tâm đến quy mô tổ chức mang tính cục bộ, tiểu tổ phường hội, nghiệp đoàn bỏ quy mô tập trung thống nhất mang tính toàn diện, biến cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân “thành một cuộc đấu tranh “thực tế” đòi những cải cách từ từ, vụn vặt”[11].
Về tổ chức hạ thấp vai trò hình thức tổ chức của đảng ngang hàng với nghiệp đoàn, phủ nhận tính tiền phong của đảng, lẫn lộn đảng với tổ chức khác của giai cấp công nhân. Về hình thức được biểu hiện dưới nhiều bộ mặt mập mờ và ít dứt khoát, do đó sống dai dẳng dưới nhiều hình thức khác nhau.
Từ việc khái quát đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa cơ hội V.I.Lê nin đã chỉ ra thực chất của chủ nghĩa cơ hội, xét lại quốc tế đó là chủ nghĩa phản động, phản cách mạng cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức đang lũng đoạn phong trào cộng sản và công nhân quốc tế.
Về vấn đề xây dựng Đảng, khi cụng kớch, bài xích chủ nghĩa Mỏc, cỏc lý luận gia tư sản và những phần tử xét lại thường lớn tiếng hô hào về sự “phi tính đảng” của lý luận. Theo họ, lý luận muốn thực sự khỏch quan, khoa học thỡ phải “phi tớnh đảng”, phải “đứng trên giai cấp”; nếu lý luận phản ánh địa vị và lợi ích giai cấp, trở thành vũ khí đấu tranh giai cấp thỡ sẽ mất tính khách quan, khoa học... Có thể nói, sai lầm cơ bản của những phần tử cơ hội, xét lại là đó đối lập tuyệt đối tính đảng và tính khoa học của lý luận, nhất là đó phủ nhận sự thống nhất biện chứng tớnh đảng với tính khoa học của chủ nghĩa Mác.
Với quan điểm duy vật biện chứng về lịch sử, V.I.Lê-nin đó phờ phỏn sõu sắc cỏc quan điểm duy tâm chủ quan và siêu hỡnh của chủ nghĩa cơ hội, xét lại. Người khẳng định rằng: trong xó hội cú đối kháng giai cấp, không có thứ lý luận “phi tính đảng”: nếu không có quan điểm gia cấp rừ ràng thỡ khụng thể luận giải khỏch quan, khoa học cỏc hiện tượng xó hội; mong đợi một khoa học vô tư trong xó hội cú đối kháng giai cấp là “một sự ngây thơ khờ khạo”. Người nhấn mạnh: “Chứng nào người ta chưa biết phân biệt được lợi ích của giai cấp này hay của giai cấp khác, ẩn đằng sau bất kỳ những câu nói, những lời tuyên bố và những lời hứa hẹn nào có tính chất đạo đức, tôn giáo, chính trị, và xó hội, thỡ trước sau bao giờ người ta cũng vẫn là kẻ ngốc nghếch bị người khác lừa bịp và tự lừa bịp mình về chính trị”.[12]
V.I. Lê-nin đó vạch trần bản chất phản động được che đậy bởi những thủ đoạn mập mờ xảo trá và bộ mặt giả nhân, giả nghĩa của những phần tử cơ hội, xét lại. Họ đó xuyờn tạc lịch sử, mưu toan tước bỏ nội dung giai cấp và tính cách mạng của chủ nghĩa Mác nhằm đi tới phủ định học thuyết khoa học của Mác, đồng thời ra sức biện hộ cho chủ nghĩa tư bản, phụ họa và tán dương quan điểm của các lý luận gia tư sản về “tính hợp lý”, về “tính chất tiến bộ”... của chủ nghĩa tư bản. V.I. Lê-nin coi những luận điệu về “tính phi đảng”, “vỡ quyền lợi của mọi người”, v.v... là trừu tượng, kinh viện và điều chỉ là “những mánh khéo bịp bợm điều hoà” của chủ nghĩa cơ hội. Người cũng chỉ rừ: “Khi núi đến đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội thỡ khụng bao giờ được quên đặc điểm của tất cả chủ nghĩa cơ hội hiện đại trong mọi lĩnh vực là: nó mang tính chất không rừ ràng, lờ mờ và khụng thể nào hiểu nổi được. Do bản chất của mỡnh, phỏi cơ hội chủ nghĩa bao giờ cũng tránh đặt các vấn đề một cách rừ ràng và dứt khoỏt; bao giờ nú cũng tỡm con đường trung dung, nó quanh co uốn khúc như con rắn nước giữa hai quan điểm đối chọi nhau, nó tỡm cỏch “thoả thuận”với cả quan điểm này lẫn quan điểm kia, vỡ nú quy những sự bất đồng ý kiến của mình lại thành những điều sửa đổi nhỏ nhặt, những sự hoài nghi, những nguyện vọng thành tâm và vô hại, v.v..”[13].
2. Tư tưởng của Lênin về đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội
Như vậy V.I.Lê nin đã vạch trần bản chất, nguồn gốc và những đặc điểm của chủ nghĩa cơ hội quốc tế nói chung và "phái kinh tế" ở Nga nói riêng. V.I.Lê nin đã chỉ ra nhiệm vụ của Đảng dân chủ xã hội Nga và các đảng kiểu mới là phải đánh bại chủ nghĩa cơ hội một cách thực sự. V.I.Lê nin khảng định:"Vấn đề đặt ra hiện nay là: dù những đặc điểm đó của phái "phê bình và chủ nghĩa Bécstanh ở Nga thì nhiệm vụ của những người muốn đánh đổ chủ nghĩa cơ hội một cách thật sự, chứ không phải trên lời nói, là thế nào? Thứ nhất là phải nghĩ đến việc làm lại công tác lý luận là công tác chỉ vừa mới bắt đầu được tiến hành trong thời kỳ chủ nghĩa Mác hợp pháp và nay thì những nhà hoạt động bất hợp pháp lại phải đảm nhiệm lấy; không có công tác ấy thì phong trào không thể phát triển thắng lợi được. Thứ hai là cần tiến hành đấu tranh tích cực chống "phái phê bình" hợp pháp, nó đã làm truỵ lạc đầu óc con người đến cùng cực. Thứ ba là phải lên tiếng mạnh mẽ chống tình trạng lộn xộn và dao động trong phong trào thực tế, bằng cách tố cáo và bác bỏ mọi mưu đồ làm giảm giá trị, một cách có ý thức hay không có ý thức, cương lĩnh và sách lược của chúng ta"[14]. Để có cơ sở khoa học đánh bại chủ nghĩa cơ hội V.I.Lê nin đã đấu tranh và khảng định vai trò tầm quan trọng của lý luận cách mạng đối với phong trào cách mạng của giai cấp công nhân, đối với Đảng cộng sản nói chung và Đảng dân chủ xã hội Nga nói riêng. V.I.Lê nin khảng định: "Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng"[15]. V.I.Lê nin chỉ ra lý luận cách mạng chính là lý luận chủ nghĩa Mác, đó là hệ thống lý luận mang bản chất cách mạng và khoa học, nó phản ảnh lợi ích mục tiêu lý tưởng, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đồng thời chỉ ra con đường và biện pháp cách mạng đúng đắn để giai cấp công nhân làm cách mạng vô sản tự giải phóng mình và giải phóng toàn xã hội, xây dựng thành công chủ nghĩa cộng sản trên phạm vi toàn thế giới, đó chính là thế giới quan phương pháp luận, là vũ khí của giai cấp công nhân, là ngọn đèn chỉ lối soi đường, là điều kiện cơ bản để giác ngộ giai cấp công nhân và chuyển hoá phong trào công nhân từ tự phát thành tự giác. Về vai trò của lý luận của chủ nghĩa Mác đối với đảng dân chủ xã hội Nga nói riêng và các đảng kiểu mới nói chung V.I.Lê nin chỉ rõ "Chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong"[16]. Để nhấn mạnh vai trò của lý luận V.I.Lê nin đã dẫn chứng lời nhận xét của Ph.Ăng ghen về tầm quan trọng của lý luận trong phong trào dân chủ xã hội và khảng định cuộc đấu tranh giai cấp có ba hình thức đấu tranh chính trị, đấu tranh kinh tế và đấu tranh lý luận, đảng cần phải nắm vững lý luận cách mạng và phải tích cực đấu tranh trên mặt trận lý luận, có như vậy lý luận cách mạng mới giữ vai trò vị trí thống trị toàn xã hội.
Trong khi phê phán luận điệu về “tính phi đảng” của chủ nghĩa cơ hội, V.I. Lê-nin đồng thời yêu cầu những người mác-xít phải kiên định và công khai tính đảng của mỡnh. Người đó chỉ rừ: Mỏc và Ăng-ghen thủy chung là những người có tính đảng; chủ nghĩa Mác là học thuyết vạch ra con đường đấu tranh để tự giải phóng của giai cấp công nhân và nhân dân lao động; “điểm chủ yếu trong học thuyết của Mỏc là ở chỗ nú làm sỏng tỏ vai trũ lịch sử thế giới của giai cấp vụ sản là người xây dựng xó hội xó hội chủ nghĩa”[17]. Mang tính đảng sâu sắc nhưng chủ nghĩa Mác không có gỡ giống “chủ nghĩa bố phỏi” hiểu theo nghĩa một học thuyết phiến diện, cực đoan và khép kính, nảy sinh ở ngoài con đường phát triển tất yếu của văn minh nhân loại. Khác hẳn về chất với các học thuyết xuất hiện trong lịch sử, học thuyết của Mác có sự thống nhất biện chứng tính đảng với tính khoa học. Cơ sở khách quan của sự thống nhất đó là sự phù hợp giữa lợi ích của giai cấp công nhân với lợi ích của nhân dân lao động và quy luật phát triển tất yếu của xó hội. Sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp cụng nhõn là do chớnh bản thõn tiến trỡnh vận động, phát triển khách quan của lịch sử quy định. Chủ nghĩa Mác không chỉ là ý nguyện của giai cấp cụng nhõn, mà cũn đồng thời là khát vọng của nhân loại tiến bộ; là sự kế thừa và phát triển những tinh hoa trong lịch sử tư tưởng- văn hoá của loài người. Chính vỡ vậy, dẫu phải trải qua nhiều thử thách gay go với những bước thăng trầm lịch sử, chủ nghĩa Mác ngày càng khẳng định sức sống mónh liệt của mỡnh; mọi thủ đoạn công kích, bài xích nhằm phủ nhận chủ nghĩa Mác đều không đủ sức thuyết phục và cuối cùng đều bị thất bại.
Tóm lại: Vào những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX trước sự lũng đoạn của chủ nghĩa cơ hội trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế nói chung và phong trào công nhân ở Nga nói riêng. Trong điều kiện đó, đòi hỏi phải đấu tranh kiên quyết với chủ nghĩa cơ hội, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác, thành lập đảng kiểu mới của giai cấp công nhân. V.I.Lê nin đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử trọng đại đó. Với các tác phẩm "Những người bạn dân...", "Làm gì?" "Một bước tiến, hai bước lùi", V.I.Lê nin đã vạch trần bản chất, nguồn gốc, đặc điểm của chủ nghĩa cơ hội, chỉ ra tính chất phản động phản cách mạng của chủ nghĩa cơ hội, khảng định vai trò của lý luận cách mạng, bảo vệ và phát triển học thuyết cách mạng của chủ nghĩa Mác, chống lại sự xuyên tạc của chủ nghĩa cơ hội.
3. Một số nét về chủ nghĩa cơ hội từ sau Đại chiến thế giới thứ II đến nay.
Từ sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, sự phát triển nhanh của cách mạng koa học và công nghệ đó gúp phần làm thay đổi diện mạo của hành tinh chúng ta và nhất là trên những khu vực mà chủ nghĩa tư bản đang ngự trị. Đời sống giai cấp công nhân đó được cải thiện tương đối, bộ mặt bóc lột của giai cấp tư sản cũng được nguỵ trang tốt hơ. Văn minh chính trị của xó hội tư bản cũng có bước cải thiện đáng kể. Trong bối cảnh đó, những ảo tưởng về một quá trỡnh cải biến chủ nghĩa tư bản thành chủ nghĩa xó hội lại cú diều kiện sống lại.
Trong các nước xó hội chủ nghĩa, ở Liên Xô và Đông Âu trước đây, mặc dù các Đảng Cộng sản đó giữ được vai trũ độc tôn lónh đạo cách mạng, nhưng ở một số nước cũng đó xuất hiện những tư tưởng cơ hội với các biểu hiện khác nhau, nhưng tựu trung được chia làm 2 loại: chủ nghĩa cơ hội tầm thường và chủ nghĩa cơ hội chính trị.
Chủ nghĩa cơ hội tầm thường không gắn với những sai lầm trong nhận thức lý luận nhưng lại biểu hiện khá phong phú trong cuộc sống hàng ngày. Nó được xuất hiện dưới các dạng như chủ nghĩa thực dụng, chủ nghĩa trọng ngân, thói xu nịnh luồn cúi, bon chen để mong tỡm kiếm những lợi ớch vật chất hay tinh thần của cỏ nhõn. Kẻ cơ hội loại này sẵn sàng bán cả danh dự, lương tâm để đạt mục đích mong muốn và do đó chúng có thể đổi trắng thành đen, nói xấu người khác, tỡm mọi cỏch để đề cao mỡnh, tạo bố phỏi, gõy mất đoàn kết nghiêm trọng trong tập thể.
Những người cộng sản khi đó sa vào chủ nghĩa cơ hội tầm thường thỡ họ tự đánh mất vai trũ tiờn phong của người đản viên, làm tổn hại đến uy tín chung của đảng trong nhân dân. Từ người cơ hội tầm thường người ta dễ trở thành người cơ hội chính trị và dễ trở thành những kẻ phản bội sự nghiệp cách mạng của giai cấp cụng nhõn, phản bội chủ nghói Mỏc-Lờnin một cỏch rất nhanh chúng. Trong thời kỳ hào bỡnh và xõy dựng chủ nghĩa xó hội, chủ nghĩa cơ hội tầm thường xuất hiện khá phổ biến và có nguy cơ lan rộng nếu các Đảng đo không thường xuyên đấu tranh phê bỡnh, củng cố phẩm chất chính trị của đội ngũ đảng viên.
Chủ nghĩa cơ hội chính trị, theo định nghĩa kinh điển thì cơ hội chính trị biểu hiện như sau:
1. Thái độ chính trị không theo một đường lối rõ rệt, không có chính kiến hẳn hoi, có thể ngã bên này hay bên nọ để mưu lợi trước mắt.
2. Trong phong trào cộng sản, có hai khuynh hướng cơ hội:
- Cơ hội "hữu khuynh": sùng bái phong trào tự phát, từ bỏ cách mạng xã hội chủ nghĩa, phủ nhận giai cấp công nhân giành chính quyền.
- Cơ hội "tả khuynh": là sự kết hợp hỗn tạp những phương châm cách mạng cực đoan và phiêu lưu, dựa trên những quan niệm duy ý về sức mạnh tuyệt đối của bạo lực cách mạng.
Cơ hội chính trị thường được rào chắn một cách kín đáo hơn và trên thực tế đó xuất hiện với 2 dạng là chủ nghĩa xột lại và chủ nghĩa giỏo điều.
Chủ nghĩa xét lại đũi xem xột lại những nguyờn lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ nhận ý nghĩa phổ biến của học thuyết này trong sự nghiệp xõy dựng chủ nghĩa xó hội, chống lại cỏch mạng vụ sản và chuyờn chớnh vụ sản, khụng thừa nhận những quy luật cơ bản của cách mạng xó hội chủ nghĩa và xõy dựng chủ nghĩa xó hội. Chủ nghĩa xột lại hiện đang gây nên tỡnh trạng bè phái trong phong trào cộng sản và công nhân quốc tế; nhiều đảng cộng sản đó phõn ly thành cỏch đảng nhỏ hơn có xu hướng chính trị khác nhau, có đảng từ bỏ nguyên tắc tập trung dân chủ... Họ khuyến khích các đảng cộng sản và công nhân thực hiện sự thoả hiệp với các chính quyền tư sản. Những quan điểm cách mạng và mác-xít trước đây đều bị coi là lạc hậu, lỗi thời.
Cũn chủ nghĩa giáo điều - một dạng khác của chủ nghĩa cơ hội chính trị - cũng gây tác hại không nhỏ cho phong trào cách mạng thế giới, nó hạn chờswj phỏt triển lý luận mác-xít và quỏ trỡnh ỏp dụng một cách sáng tạo lý luận đó vào điều kiện cụ thể của mỗi quốc gia, dân tộc. Những người giáo điều đó làm đông giá những quan điểm kinh điển, đề cao những trích dẫn máy móc hơn là nghiên cứu tỡnh hỡnh cụ thể. Trên thực tế, chủ nghĩa giáo điều thường xuất hiện ở những nước có nền kinh tế lạc hậu. Người ta đó đến với chủ nghĩa Mác-Lênin từng mẩu, từng đoạn, nhưng lại chủ quan cho rằng mỡnh đó nắm được toàn bộ tinh thần của chủ nghĩa Mác-Lênin mà không cần học lại.
Những biểu hiện khác nhau của chủ nghĩa cơ hội chính trị đương nhiên đó gặp phải sự đấu tranh quyết liệt từ những người mác-xít chân chính. Cuộc đấu tranh không khoan nhượng, thường xuyên chống các loại chủ nghĩa cơ hội là quy luật vận động và phát triển của phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Hơn lúc nào hết, chúng ta càng thấm thía lời dạy của Lênin: "giữa hệ tư tưởng tư sản và hệ tư tưởng xó hội chủ nghĩa khụng cú hệ tư tưởng trung gian nào, mọi sự xa rời hệ tư tưởng xó hội chủ nghĩa đều có nghĩa là tăng cường hệ tư tưởng tư sản"[18] .
Khi đó rơi vào lập trường cơ hội thỡ bước chuyển sang lập trường phản bội cũng không xa. Vào những năm 80 của thế kỷ XX, trong phong trào chủ nghĩa xó hội thế giới, chủ nghĩa cơ hội hiện đại xuất hiện dưới vỏ bọc mới. Dưói danh nghĩa cải tổ, cải cách nhưng thực chất là phủ định những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, phủ định những thành quả của chủ nghĩa xó hội hiện thực, trượt dài theo con đường tư bản, Chúng ta không bảo thù khi thừa nhận chủ nghĩa xó hội hiện thực ở Liờn Xụ trước đây so với lý tưởng xó hội chủ nghĩa, những nguyờn tắc và tiờu chớ cao đẹp của chủ nghĩa xó hội vẫn cũn một khoảng cỏch và nhiệm vụ của những người cách mạng là phải rút ngắn những khoảng cách đó chứ không phải là đạp đổ tất cả. Không phải ngẫu nhiên mà đồng chí V.A.Kuptsov, Phó Chủ tịch thứ nhất Đảng Cộng sản Liên bang Nga đó núi rằng "một kẻ cơ hội cũn tồi tệ gấp trăm lần so với một kẻ công khai" (Trích lời phát biểu của đồng chí V.A.Kuptsov khi tiếp và làm việc đoàn cán bộ nghiên cứu của Đảng ta, ngày 22/10/1999 tại Mát-xcơ-va).
3. Ý nghĩa đối với cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội và xây dựng Đảng ta trong giai đoạn hiện nay.
Từ những nguyên lý của V.I.Lê nin trong các tác phẩm "Những người bạn dân..", "Một bước tiến, hai bước lùi", "Làm gì?"... và các nguyên lý của học thuyết Mác-Lê nin về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân, Đảng ta đã vận dụng trung thành và sáng tạo những nguyên lý đó vào điều kiện hoàn cảnh của cách mạng Việt Nam, đã xây dựng Đảng ta trở thành một Đảng Mác xít chân chính, một bộ phận kiên cường của phong trào cộng sản quốc tế. Chính vì vậy từ khi thành lập đến nay, Đảng ta luôn khảng định và không ngừng nâng cao vai trò lãnh đạo của mình. Sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Vai trò lãnh đạo của Đảng đã được khảng định trong lãnh đạo giành chính quyền năm 1945, trong kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ và trong chiến tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, Đảng ta phải không ngừng đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Thường xuyên đề cao cảnh giác kiên quyết đấu tranh chống mọi biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Thực tiễn trong việc chống những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội, trong 75 năm qua, đã xây dựng Đảng ta luôn vững mạnh cả về chính trị tư tưởng và tổ chức. Có được như vậy là Đảng ta thường xuyên đề cao cảnh giác đấu tranh vạch trần tư tưởng cơ hội trong Đảng, nhằm tăng cường đoàn kết thống nhất, tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với cách mạng nước ta. Nhất là những lúc Đảng lãnh đạo cách mạng nước ta trải qua thời kỳ cách mạng phức tạp, lâu dài ở những bước ngoặt lịch sử, những thời kỳ khó khăn gian khổ thường xuất hiện tư tưởng cơ hội dưới nhiều mầu sắc, hữu khuynh, tả khuynh ở những mức độ khác nhau. Trong cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, khi cách mạng ở vào thời điểm khó khăn ác liệt, thấy kẻ thù hùng mạnh, vũ khí tối tân đã có một số người khiếp sợ kẻ thù, dao động về chính trị, xuất hiện tư tưởng từ bỏ đấu tranh vũ trang, có ảo tưởng về con đường thoả hiệp, trung sống hoà bình. Từ cơ hội về chính trị, một ít người đi tới hoạt động bè phái, chống đối tổ chức. Nhưng Đảng ta với đường lối lãnh đạo đúng đắn đã kiên quyết đấu tranh vạch trần tư tưởng cơ hội hữu khuynh, tăng cường đoàn kết thống nhất trong Đảng, lãnh đạo cách mạng nước ta hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc thống nhất đất nước đưa nước ta đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ở Việt Nam, những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội có khác so với một số nước khác. Sự nghiệp cách mạng của Việt Nam do Đảng của giai cấp công nhân Việt Nam lónh đạo, ngay từ đầu đó xỏc định nhiệm vụ giải phóng quốc gia, dân tộc khỏi sự nô dịch của đế quốc bên ngoài là mục tiêu chủ yếu. Nhiệm vụ trọng đại đó tự nó đó cú sức tập hợp hết sức lớn lao. Cả dõn tộc Việt Nam đồng thanh với tiếng nói truyền thống ngàn đời chống ngoại xâm đó hướng theo ngọn cờ của Đảng để giải phóng dân tộc. Trong quá trỡnh đó, chủ nghĩa cơ hội quốc tế cũng khó có thể ảnh hưởng đến phong trào của công nông nước ta. Cho nên có thể khẳng định, trong phong trào cách mạng Việt Nam chưa có thời kỳ nào xuất hiện chủ nghĩa cơ hội với tư cách như một lực lượng hay một phong trào có khả năng ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cách mạng. Những biểu hiện đó từng biết đến, đó là nhóm "Trốtkitst" hay nhóm "A.B" đều bị vô hiệu hóa một cách kịp thời.
Trong thời kỳ xõy dựng chủ nghĩa xó hội trên phạm vi cả nước, Đảng ta vẫn tiếp tục giữ được phẩm chất của một Đảng cách mạng chân chính, chưa từng nghiêng nghả, kể cả trong những giai đoạn phức tạp, mất đoàn kết nhất của phong trào cộng sản quốc tế.
Trong những năm xáo động của tỡnh hỡnh thế giới gần đây, trước sự sụp đổ chủ nghĩa xó hội của Liờn Xụ và Đông Âu, cũng có không ít người phân vân, dao động, thậm chí có người muốn xét lại con đường đi lên chủ nghĩa xó hội mà chỳng ta đó lựa chọn. Tâm trạng và tư tưởng đó xuất hiện trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể cuối những năm 80 đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Liên Xô, thành trỡ của hoà bỡnh và cỏch mạng thế giới đó bị sụp đổ trước sự ngỡ ngàng của hàng triệu con người. Vấn đề đặt ra với chúng ta, đất nước ta, dân tộc ta là đi đâu? Một lần nữa trí tuệ của Đảng và ý nguyện của cả dõn tộc lại hoà làm một: xõy dựng một đất nước dân giàu, nước mạnh, xó hội cụng bằng, dõn chủ và văn minh. Trong dũng chảy của sự nghiệp đổi mới hôm nay, đất nước ta đang hồi sinh nhanh chóng sau một thời kỳ dài chống ngoại xâm và sẽ không có chỗ đứng cho bất cứ một lực lượng chính trị cơ hội nào.
Tuy nhiờn, cũng cần nhỡn thẳng vào thực tế hiện nay, trong khụng khớ vươn lên của một quốc gia dang sống trong hũa bỡnh và ngày càng phồn vinh, những biểu hiện của chủ nghĩa cơ hội tầm thường có biểu hiện ngày càng nhiều hơn. Những con người "biến dạng và tha hoá" đó không có sự liên kết rộng rói với nhau trong một nhúm hay một phỏi nào, nhưng lại đang như những hạt san, giống nhau như những giọt nước. Bằng mọi thủ đoạn, chúng đang bám lấy cơ thể Đảng như những ký sinh trựng cú hại. Chỳng cần tiền,cần chức vụ, cần mọi thứ bổng, lộc để phục vụ cho lợi ích và hónh tiến cỏ nhõn. Họ đang làm hại Đảng, làm hao mũn uy tớn của Đảng trong nhân dân.
Điều cần thiết hiện nay là phải thẳng thắn gạt bỏ những bọn cơ hội tầm thường đó. Chúng ta hóy nhỡn lại và tham khảo nhiều bài học từ sự sụp đổ của các Đảng Cộng sản ở Liên Xô và nước xó hội chủ nghĩa ở Đông Âu trước đây, để quyết định một thái độ hành động cho hôm nay với các loại cơ hội đang tồn tại trong dũng chảy cỏch mạng của đất nước ta.
Chúng ta không nên đơn giản hoá coi đó chỉ là những đảng viên chưa gương mẫu, những đảng viên trung bỡnh, chưa đạt danh hiệu "đảng viên xuất sắc"... Mà theo tinh thần của V.I.Lênin, đó là những "kẻ thù bên trong" của cách mạng và cần phải tiến hành một cuộc đấu tranh không khoan nhượng với chúng.
Nhất là trong những năm gần đây tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp đã và đang tác động mạnh vào cách mạng nước ta. Như cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đưa đến sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất trên thế giới và quá trình quốc tế hoá sâu sắc nền sản xuất vật chất và đời sống xã hội. Chủ nghĩa tư bản lợi dụng tình hình đó để điều chỉnh thích nghi tạm thời. Sự sụp đổ của chủ nghĩa xã hội ở Liên xô và Đông Âu đã làm cho chủ nghĩa xã hội lâm vào khủng hoảng thoái trào, các lực lượng xã hội chủ nghĩa bị thu hẹp. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại đứng trước những khó khăn thử thách to lớn. Lợi dụng tình hình đó chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình” bạo loạn lật đổ để chống phá cách mạng nước ta. Bên cạnh đó Đảng ta đề ra đường lối phát triển kinh tế xã hội của đất nước là thực hiện đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, đa phương hoá, đa dạng hoá các mối quan hệ quốc tế, nhất là việc phát triển mạnh mẽ nền kinh tế nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong những điều kiện quốc tế và trong nước như vậy, đã làm xuất hiện những tư tưởng cơ hội về chính trị biểu hiện: Quan điểm chính trị không rõ ràng, phai nhạt lý tưởng cách mạng, không vững vàng trên những vấn đề đường lối quan điểm của Đảng, lập trường tư tưởng giao động thiếu niềm tin vào chủ nghĩa xã hội, hoài nghi vai trò lãnh đạo của Đảng, không kiên định vào những vấn đề nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Vì vậy để tăng cường cuộc đấu tranh đẩy lùi và khắc phục tư tưởng cơ hội chủ nghĩa với mọi biểu hiện của nó là vấn đề vừa cơ bản lâu dài, vừa cấp bách của Đảng ta hiện nay. Do đó, Nghị quyết hội nghị Trung ương 6 (lần 2) của Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã phân tích tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị và tình trạng tham nhũng, quan liêu, lãng phí của một bộ phận cán bộ, đảng viên, đồng thời chỉ ra việc thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ không nghiêm túc trong các tổ chức đảng, đã quyết định mở cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng. Qua quá trình thực hiện đã đạt được một số kết quả nhất định, góp phần củng cố tăng cường năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, song vẫn chưa đạt yêu cầu đề ra, chưa tạo được chuyển biến cơ bản, chưa chặn đứng và đẩy lùi tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí, tình trạng suy thoái về phẩm chất đạo đức lối sống của một bộ phận cán bộ đảng viên. Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Bên cạnh những ưu điểm, công tác xây dựng Đảng còn nhiều yếu kém, khuyết điểm chưa theo kịp đòi hỏi của tình hình mới; nổi lên là sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng; tệ quan liêu tham nhũng, lãng phí chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, làm giảm lòng tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân"[19]. "Việc đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng còn chậm và lúng túng. Chậm nghiên cứu và ban hành những quy định cụ thể về phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước; chậm xây dựng các cơ chế phối hợp giữa các tổ chức trong hệ thống chính trị"[20].
Để đấu tranh chống những tư tưởng cơ hội chủ nghĩa, chúng ta phải nắm vững những đặc trưng cơ bản của tư tưởng cơ hội chủ nghĩa là sự giao động ngả nghiêng về chính trị, không kiên định trên những vấn đề nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối chính sách của Đảng. Khi cách mạng thuận lợi thì tỏ ra rất cấp tiến, khi cách mạng gặp khó khăn thì thoái lui, thoả hiệp. Họ thường ít bộc lộ quan điểm một cách thật rõ ràng, họ che dấu bộ mặt thật, vừa tỏ ra ủng hộ đường lối của Đảng, bảo vệ Chủ nghĩa Mác-Lê nin, thổi phồng một khía cạnh trong đường lối hợp với quan điểm của họ. Họ lấy danh nghĩa đổi mới tư duy, bổ sung cụ thể hóa đường lối của Đảng, thêm chi tiết này, thêm chi tiết khác mà thực chất là sửa cốt lõi đường lối quan điểm của Đảng ta. Những tư tưởng đó còn biểu hiện trên lĩnh vực đạo đức lối sống một số người mang danh nghĩa Đảng cộng sản, chiến sĩ cách mạng nhưng sống không có lý tưởng, tính toán thực dụng, tìm kiếm cơ hội để đạt danh vọng cá nhân, hình thức bề ngoài rất cách mạng, rất nhất trí với đường lối của Đảng, rất tin tưởng chủ nghĩa xã hội, nhưng bên trong họ sống không trung thực, luôn tìm mọi cách để chạy chức, chạy quyền, tạo dựng tín nhiệm có lợi cho bản thân, sống sa hoa truỵ lạc, sa rời quần chúng.
Chính vì vậy, trước tình hình hiện nay, trong công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng chúng ta phải chú trọng khắc phục suy thoái về chính trị tư tưởng và đạo đức lối sống cơ hội thực dụng. Chúng ta cần thực hiện tốt một số nội dung chủ yếu sau đây:
Đối với Đảng ta luôn xây dựng chủ trương đường lối lãnh đạo cách mạng một cách sát đúng, giữ nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, phát huy vai trò tính tiền phong gương mẫu của cán bộ đảng viên trong thực hiện nhiệm vụ. Nâng cao chất lượng sinh hoạt, đẩy mạnh phê bình và tự phê bình ở từng tổ chức đảng và mỗi đảng viên. Kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện mơ hồ mất cảnh giác, phai nhạt mục tiêu lý tưởng, thoái hoá biến chất, vi phạm phẩm chất đạo đức lối sống của người cán bộ đảng viên. Đấu tranh với những hành vi vi phạm cương lĩnh, đường lối nghị quyết của Đảng, vi phạm nguyên tắc của Đảng. Giải quyết dứt điểm việc gây mất đoàn kết trong nội bộ Đảng, giữ vững sự đoàn kết thống nhất trong Đảng, bảo đảm cho toàn Đảng luôn thống nhất cả về lý luận và thực tiễn, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức đủ trình độ năng lực để lãnh đạo cách mạng giành thắng lợi.
Thường xuyên tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng một cách chủ động kịp thời sắc bén, có tính thuyết phục cao, củng cố khối đoàn kết thống nhất chính trị tư tưởng trên cơ sở đường lối quan điểm của Đảng. Giáo dục cho cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân nắm vững lý luận chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu con đường đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, đường lối quan điểm của Đảng, pháp luật của Nhà nước, xây dựng niềm tin vào đường lối đổi mới xây dựng đất nước của Đảng.
Kiên quyết đấu tranh đập tan các luận điệu xuyên tạc của địch, phản động mưu toan xoá bỏ chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, xuyên tạc chủ nghĩa xã hội và vai trò lãnh đạo của Đảng, cổ vũ "dân chủ, nhân quyền tư sản". Không lúc nào được buông lỏng cuộc đấu tranh vạch trần bản chất sai trái, nguy hại của chủ nghĩa cơ hội, hữu khuynh, xét lại của chủ nghĩa giáo điều cũ và mới, của mọi biểu hiện mơ hồ giao động về chính trị cũng như lối sống cơ hội, thực dụng. Kiên quyết bảo vệ sự trong sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối quan điểm của Đảng ta.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn nhằm bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Mở rộng dân chủ phát huy tự do tư tưởng, động viên mọi tiềm năng sáng tạo trong nghiên cứu lý luận. Giữ nghiêm kỷ luật phát ngôn, không phát ngôn vô tổ chức, không truyền bá những quan điểm riêng trái với cương lĩnh đường lối của Đảng.
Đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân, là nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Để bảo vệ Đảng, bảo vệ và phát triển chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh đòi hỏi mỗi tổ chức đảng và mỗi cán bộ đảng viên phải luôn đề cao cảnh giác, phân biệt nhận rõ kẻ cơ hội để đấu tranh loại trừ chúng ra khỏi tổ chức đảng, đảm bảo cho tổ chức đảng luôn được trong sạch vững mạnh. Muốn vậy mỗi cán bộ đảng viên phải không ngừng học tập nghiên cứu lý luận Mác-Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh để có đủ trình độ lý luận, trí tuệ phân tích làm rõ tính phản động của chủ nghĩa cơ hội. Xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng không giao động trước những luận điệu xuyên tạc của chủ nghĩa cơ hội. Xây dựng niềm tin vào sự nghiệp đổi mới của Đảng, niềm tin cộng sản chủ nghĩa.
* *
*
Từ bài học về sự kiên định tính đảng mác-xít của V.I. Lê-nin trong đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội, soi rọi vào hiện thực cuộc sống ngày nay, chúng ta càngcảm nhận sâu sắc vấn đề có tính nguyên tắc: nếu không kiên định tính đảng mác-xít trong mọi hoạt động lý luận và thực tiễn, thỡ khụng chỉ mắc sai lầm về chớnh trị, mà cũn mắc sai lầm cả về phương diện khoa học, và do đó, không tránh khỏi bị đầu độc bởi những thủ đoạn tinh vi, xảo trá của chủ nghĩa cơ hội, xét lại hiện đại. Với lẽ đó, trong quá trỡnh bảo vệ phỏt triển và hiện thực hoỏ những tư tưởng khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin trong thời đại ngàynay, chúng ta cần kiên định nguyên tắc tính đảng mác-xít, tỉnh táo và kiên quyết đấu tranh chống lại những âm mưu và thủ đoạn của chủ nghĩa cơ hội, xét lại hiện đại. Đây là một vấn đề có ý nghĩa cơ bản và cấp bách, đúng như lời chỉ dẫn của V.I. Lê-nin: “Nếu không có cuộc đấu tranh quyết định và thẳng tay về mọi mặt chống chủ nghĩa cơ hội, xét lại, thỡ khụng thể núi đến đấu tranh chống chủ nghĩa đế quốc, nói đến chủ nghĩa Mác, nói đến phong trào công nhân xó hội chủ nghĩa”[21].
Mặt khác, chúng ta cần tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa công tác tư tưởng, lý luận để tạo sự thống nhất chính trị, tư tưởng và niềm tin của cán bộ, đảng viên, của quần chúng nhân dân với nền tảng tư tưởng của Đảng, tạo ra được cơ sở khoa học để góp vào xây dựng đường lối, chính sách của Đảng và công tác tuyên truyền, giáo dục mới có cơ sở khoa học trong việc quán triệt đường lối, chính sách, bảo đảm cho việc tổ chức thực hiện một cách đúng đắn và sáng tạo, đồng thời mới có cơ sở khoa học cho cuộc đấu tranh đập tan mọi luận điệu xuyên tạc của kẻ thù, của những kẻ cơ hội dưới mọi màu sắc.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
- V.I. Lê-nin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va,1975-1981, Các tập: 5 - 35.
- ĐCSVN, VKĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H, 2006.
- Viện Xây dựng Đảng, HVCTQG, Giới thiệu các tác phẩm kinh điển, Hà Nội, 2002.
- Viện Nghiên cứu kinh điển, HVCTQG, Giới thiệu các tác phẩm kinh điển, Hà Nội, 2005.
- Bút ký nghiên cứu lý luận
[1] Lê nin toàn tập, Nxb Tiến bộ Mác xcơ va 1978, tập 6, tr 10-11
[2] Sđd tập 6 tr 11
[3] Sđd tập 6 tr 7-8
[4] Sđd tập 6 tr 9-10
[5] Sđd tập 6 tr 13
[6] Sđd tập 6 tr 18
[7] Sđd tập 6 tr 18
[8] Sđd tập 6 tr 23
[9] Sđd tập 6 tr 21
[10] Sđd tập 6 tr 21
[11] Sđd tập 6 tr 21
[12] V.I. Le-nin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va,1980,t.23,tr.57
[13] V.I. Lê-nin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va,1979,t.8,tr.476-477
[14] Sđd tập 6 tr 25
[15] Sđd tập 6 tr 30
[16] Sđd tập 6 tr 32
[17] V.I. Lê-nin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va,1980,t.23,tr.1
[18] V.I.Lênin, Toàn tập, Tập 6, Nxb Tiến bộ, M. 1975, tr.50.
[19] ĐCSVN, VKĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, 2006, tr 274.
[20] ĐCSVN, VKĐHĐB toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, 2006, tr 272-273
[21] V.I. Lê-nin. Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va,1981,t.30,tr.227